Đây là thông tin được đưa ra trong báo cáo nhận định về tiềm năng của kinh tế số Đông Nam Á cũng như Việt Nam, vừa được Ngân hàng HSBC Việt Nam công bố.
Đây là thông tin được đưa ra trong báo cáo nhận định về tiềm năng của kinh tế số Đông Nam Á cũng như Việt Nam, vừa được Ngân hàng HSBC Việt Nam công bố.
'Trong bối cảnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội thì tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91% là thành công lớn của Việt Nam.'
“GDP năm 2020 tăng 2,91% và là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020. Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội thì đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới,” bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê trao đổi tại họp báo công bố thống kê kinh tế-xã hội quý 4 và cả năm 2020, ngày 27/12.
Bà Hương cho biết dịch COVID-19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực từ ngày 1/8... đã tạo động lực cho nền kinh tế, góp phần đưa GDP quý 4 tăng trưởng khởi sắc so với quý 3. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 4 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, song đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020.
Như vậy, với mức tăng GDP của quý 1 là 3,68%, quý 2 tăng 0,39%, quý 3 tăng 2,69% và quý 4 tăng 4,48%, tổng sản phẩm trong nước cả năm 2020 tăng 2,91%. Đây là thành công lớn của Việt Nam khi mức tăng trưởng của cả năm thuộc nhóm cao nhất thế giới, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hoành hành.
“Điều này cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực, cố gắng của người dân, cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế-xã hội,” bà Hương nói.
Đáng chú ý, trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53% và khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%.
Chỉ ra một số điểm nhấn tạo động lực tăng tưởng, bà Hương cho hay trong khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng của một số cây lâu năm và sản phẩm chăn nuôi trong năm có mức tăng khá nên tốc độ tăng của khu vực này đạt cao hơn năm 2019. Nhờ đó, ngành nông nghiệp có mức tăng 2,55%, chỉ thấp hơn mức tăng của các năm 2011, năm 2012 và năm 2018, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp tăng 3,36% so với năm trước và đóng góp 1,12 điểm phần trăm; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82% và đóng góp 1,25 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ. Do đó, khu vực dịch vụ có mức tăng thấp nhất trong 10 năm qua. Một số ngành dịch vụ thị trường đóng góp tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm, như bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế năm 2020, bà Hương cho hay khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,85%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%, khu vực dịch vụ chiếm 41,63%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8% (cơ cấu tương ứng của năm 2019 là 13,96%; 34,49%; 41,64%; 9,91%).
Điểm nổi bật, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2020 ước tính đạt 117,9 triệu đồng/lao động (tương đương 5.081 USD/lao động và tăng 290 USD so với năm 2019). Theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 5,4% do trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2020 đạt 24,1% và cao hơn mức 22,8% của năm 2019).
Trước đó, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) đã giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, và thấp hơn so mức 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
“Tuy nhiên trong năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19 khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực nên ICOR năm 2020 đạt 14,28 và khiến bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR là 7,04,” bà Hương nói.
Bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê phát biểu:
Ngày 2/12, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam năm 2024 (VLF 2024) được tổ chức tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đây là diễn đàn được Bộ Công Thương tổ chức hằng năm từ năm 2013 đến nay. Diễn đàn Logistics Việt Nam 2024 nhằm thúc đẩy doanh nghiệp logistics ứng dụng công nghệ tiến bộ, hiện đại trong việc vận hành chuỗi cung ứng; tìm giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh cho tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và khu vực Đông Nam Bộ. Đặc biệt, tạo môi trường để liên kết giữa các doanh nghiệp logistics, các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý nhằm phát triển logistics Việt Nam.
Với chủ đề "Khu thương mại tự do, giải pháp đột phá thúc đẩy tăng trưởng logistics", diễn đàn năm nay muốn lan tỏa thông điệp về việc Việt Nam khuyến khích, thu hút phát triển các khu thương mại tự do, nhằm đưa Việt Nam thành quốc gia mạnh về logistics, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Việt Nam xếp hạng thuộc nhóm 5 thị trường logistics dẫn đầu ASEAN
Phát biểu tại phiên toàn thể của diễn đàn, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh một số kết quả, thành tựu phát triển ngành logistics Việt Nam thời gian qua, trước hết là nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngành logistics, về vị trí Việt Nam trên bản đồ logistics thế giới, khả năng đưa Việt Nam trở thành trung tâm logistics thế giới.
Nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế về logistics của Việt Nam được cải thiện. Năm 2023, Chỉ số hiệu quả logistics của Việt Nam xếp 43/139 (xếp hạng của World Bank), các chỉ số thành phần về hiệu quả vận chuyển quốc tế, hạ tầng và hiệu quả hải quan được cải thiện. Đặc biệt, Việt Nam đã được xếp hạng thuộc nhóm 5 thị trường dẫn đầu ASEAN.
Cùng với đó, khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách ngành này được tiếp tục hoàn thiện; cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, kiểm tra chuyên ngành đạt kết quả tích cực, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Cũng theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, hiện nay, hạ tầng logistics Việt Nam phát triển nhanh với nhiều công trình lớn, hiện đại, thúc đẩy cơ cấu hợp lý, kết nối hài hoà các phương thức vận tải, giảm chi phí. Trong đó, hạ tầng đường bộ có nhiều đột phá, hệ thống đường cao tốc đã đạt trên 2.000 km. Việt Nam cũng đang quyết tâm xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, kết nối đường sắt với Lào, Trung Quốc.
Hệ thống sân bay phát triển tương đối tốt. Năng lực đường thủy nội địa được nâng cao với 298 cảng nội địa; hình thành các cảng biển cửa ngõ, bến chuyên dùng gắn với khu công nghiệp trung tâm công nghiệp (có 286 bến cảng, 95 km cầu cảng, 25 tuyến quốc tế…); hoàn thiện khu xử lý hàng hóa riêng biệt tại các cảng hàng không; đẩy mạnh đầu tư các trung tâm logistics (hiện có 69 trung tâm lớn và vừa), chuyển mạnh sang trung tâm thế hệ mới ứng dụng công nghệ 4.0…
Số doanh nghiệp logistics cũng tiếp tục gia tăng, đi vào hiện đại, khả năng cạnh tranh ngày càng cao. Năm 2023, có 7.919 doanh nghiệp logistics thành lập mới. Đáng chú ý, Việt Nam đứng đầu ASEAN về số doanh nghiệp được cấp phép vận chuyển đường biển đi và đến Hoa Kỳ.
"Logistics phát triển theo xu hướng tích cực hơn với các phương thức vận tải đa dạng, giảm dần phụ thuộc vào vận tải bằng đường bộ. Phát triển nhân lực logistics được đẩy mạnh, hiện nay đã tập trung phát triển 3 cấp độ đào tạo: đại học và trên đại học; cao đẳng, trung cấp; đào tạo ngắn hạn và hiện đã có 49 trường đại học có ngành học logistics," Thủ tướng Phạm Minh Chính nói.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng cũng chỉ ra những hạn chế, tồn tại liên quan tới nhận thức về ngành logistics và tiềm năng, vị trí của Việt Nam trong lĩnh vực này.
"Chí phí logistics còn cao, làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế. Quy mô của ngành so với quy mô GDP Việt Nam và quy mô ngành logistics toàn cầu còn hạn chế. Nguồn nhân lực còn yếu và thiếu; doanh nghiệp phát triển chưa mạnh, chưa có cơ chế để phát triển; mối liên kết giữa các phương thức vận tải với kho bãi còn hạn chế; hạ tầng logistics còn lạc hậu," Thủ tướng nhận định.
3 mục tiêu, 7 giải pháp phát triển ngành logistics Việt Nam
Trong bối cảnh thương mại quốc tế ngày một phát triển mạnh mẽ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề ra 3 mục tiêu phát triển ngành logistics, góp phần phục vụ mục tiêu lớn phát triển đất nước, bao gồm: giảm chi phí logistics so với GDP Việt Nam từ 18% xuống còn 15% trong năm 2025;
Nâng tỷ trọng ngành logistics Việt Nam trong quy mô GDP từ 10% lên 15% và phấn đấu đạt 20%, đồng thời nâng tỷ trọng của ngành logistics Việt Nam so với quy mô ngành logistics toàn cầu từ 0,4% lên 0,5% và phấn đấu đạt 0,6%;
Đặc biệt, nâng tốc độ tăng trưởng của ngành logistics Việt Nam từ 14-15% mỗi năm hiện nay lên 20%.
Cùng với đó, Thủ tướng cũng nhấn mạnh 7 giải pháp để thực hiện 3 mục tiêu đã đề ra, góp phần đưa tăng trưởng kinh tế đất nước đạt mức 2 con số mỗi năm trong những năm tới.
Cụ thể, nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngành logistics và vị trí Việt Nam ở trung tâm khu vực châu Á - Thái Bình Dương để khai thác, phát huy tối đa tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh trong chuỗi logistics thế giới.
Tạo đột phá thể chế theo hướng thông thoáng để phát triển ngành xứng tầm, với quan điểm "thể chế là nút thắt của nút thắt", là "đột phá của đột phá".
Xây dựng hạ tầng logistics hiện đại, thông suốt để giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là phát triển ngành hàng không, hàng hải và đường sắt tốc độ cao.
Xây dựng quản trị thông minh và đào tạo nhân lực chất lượng cao cho ngành logistics.
Đẩy mạnh hội nhập, ngoại giao logistics và hiện đại hóa ngành logistics nội địa.
Xây dựng và phát triển quốc gia thương mại tự do, đồng thời quản lý hiệu quả, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển.
Kết nối chặt chẽ giữa các phương thức giao thông (hàng không, hàng hải, đường sắt, đường bộ và đường thủy nội địa) và kết nối với giao thông quốc tế, với các khu thương mại tự do của thế giới.
Thủ tướng yêu cầu trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các cơ quan, địa phương tích cực, chủ động triển khai các giải pháp theo 7 đột phá nói trên. Trong đó, Bộ Công Thương chủ trì, cùng các Bộ, ngành xây dựng chiến lược phát triển ngành logistics, đề án phát triển quốc gia thương mại tự do, phát triển các khu thương mại tự do ở biên giới.
"Trung ương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi và tăng cường kiểm tra, giám sát; địa phương tăng cường tính tự lực, tự cường, tính chủ động, 'địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm', hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển.
Chính phủ sẽ tiếp tục phát huy vai trò kiến tạo, tập trung xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, thể chế, cơ chế, chính sách, tạo môi trường thông thoáng cho sự phát triển, thiết kế công cụ huy động nguồn lực, giám sát, kiểm tra," Thủ tướng nói.
Thủ tướng cũng đề nghị các đối tác, doanh nghiệp nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tham gia góp ý chính sách, xây dựng và hoàn thiện thể chế với tinh thần "tôn trọng thực tiễn, bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo", giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
"Đề nghị các bạn bè, đối tác quốc tế cùng Việt Nam tiếp tục xây dựng mối quan hệ thật tốt, Việt Nam kiên trì, kiên định thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì mục tiêu hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển," Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh.